Các đồng chí thân mến, Nhận thấy giai cấp vô sản Pháp hết sức quan tâm đến cuộc tranh đấu cách mạng chúng tôi tiến hành ở Đông Dƣơng, chúng tôi có nhiệm vụ trình bày với các đồng chí bản tổng kết hai năm tranh đấu, để các đồng chí hiểu rõ cuộc tranh đấu không mệt mỏi mà Đảng Cộng sản trẻ tuổi của chúng tôi tiến hành chống chủ nghĩa cơ hội trong nội bộ, và những nhiệm vụ trƣớc mắt đặt ra trƣớc phong trào cách mạng Đông Dƣơng trong giai đoạn hiện nay.
Hai năm tranh đấu Trƣớc khi làm bản tổng kết những cuộc tranh đấu anh dũng của công nhân và nông dân Đông Dƣơng, chúng tôi xin nói rõ một chút về lịch sử của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng. Các đồng chí còn trẻ hoàn toàn không biết lịch sử của Đảng và đinh ninh rằng Đảng Cộng sản ra đời từ những phần tử tiên tiến nhất của đảng quốc gia An Nam. Những sự khẳng định sai lầm và nguy hiểm ấy dẫn tới sự phủ nhận vai trò quan trọng của các nhóm cộng sản cũ và sự quá đề cao vai trò hoàn toàn không có của Việt Nam Quốc dân Đảng trong việc thành lập Đảng Cộng sản thống nhất của chúng tôi. Sự thật cần đƣợc khôi phục nhƣ sau: Tại Đại hội lần thứ nhất của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Hội họp ngày 1-5-1929 ở Hồng Kông, đã hình thành hai cánh. Những ngƣời cộng sản ƣu tú của cánh tả hồi tháng 5-1929 đã thành lập "Đảng Cộng sản Đông Dƣơng" cũ (ở Bắc Kỳ). Tháng 8 cùng năm, những ngƣời cộng sản thuộc cánh hữu của hội ấy thành lập tại Nam Kỳ Đảng Cộng sản An Nam; sau đó ít lâu tại Trung Kỳ thành lập Liên đoàn Đảng Cộng sản Đông Dƣơng, ra đời từ những ngƣời cộng sản của Đảng Cách mạng Tân Việt. Tháng 2-1930 (trƣớc cuộc khởi nghĩa Yên Bái), ba tổ chức cộng sản trên đây hợp nhất lại và thành lập Đảng Cộng sản thống nhất của Việt Nam, tháng 10-1930 Đảng đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dƣơng. Đúng là một số rất ít phần tử Việt Nam Quốc dân Đảng đã chuyển sang hàng ngũ cộng sản, nhƣng không bao giờ chúng tôi có thể bỏ qua sai lầm nghiêm trọng của những đồng chí tìm nguồn gốc của Đảng Cộng sản chúng tôi trong Quốc dân Đảng. Một bộ phận nhỏ những ngƣời quốc gia cũ ấy đã thật lòng tranh đấu dƣới lá cờ của chủ nghĩa cộng sản trong lý thuyết cũng nhƣ trong thực tiễn, nhƣng bộ phận kia (bộ phận lớn) đã giữ nguyên hệ tƣ tƣởng quốc gia tiểu tƣ sản, những do dự, những thói quen khủng bố cá nhân và óc bè phái của họ. Vì vậy, việc gia nhập của những phần tử quốc gia vào Đảng chúng tôi gây hại cho chúng tôi nhiều hơn là có lợi. Những ngƣời cầm đầu và những nhà tƣ tƣởng hiện tại của những khuynh hƣớng cơ hội chủ nghĩa hoặc những nhóm thủ tiêu nhỏ trong Đảng còn trẻ tuổi của chúng tôi, phần nhiều đều là những ngƣời "cộng sản" tiểu tƣ sản ấy, hay chao đảo và không nhất quán, trƣớc đây đã tranh đấu dƣới sự lãnh đạo của Quốc dân Đảng và dƣới lá cờ của chủ nghĩa yêu nƣớc hẹp hòi. Khởi nghĩa Yên Bái là điểm cao nhất của hoạt động cách mạng của Quốc dân Đảng. Đảng này rất cách biệt với quần chúng và luôn hoạt động theo những phƣơng pháp âm mƣu rất hẹp hòi, vì thế, chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa Yên Bái mà trƣớc đó không tiến hành việc huy động quần chúng lao động rộng rãi để yêu cầu họ tham gia trực tiếp và ủng hộ có hiệu quả. Những sự kiện ở Yên Bái còn chứng tỏ cho quần chúng rộng rãi sự thiếu nhất quán và bất lực của Quốc dân Đảng trong hoạt động thực để giải phóng các giai cấp bị bóc lột trong nƣớc. Đảng này không nêu lên đƣợc một yêu sách cơ bản hay yêu sách bộ phận nào liên quan đến giai cấp công nhân, cũng chẳng nêu ra đƣợc nhiệm vụ của cách mạng ruộng đất. Sau cuộc đàn áp ở Yên Bái và sự sụp đổ của Quốc dân Đảng, Đảng Cộng sản Đông Dƣơng tồn tại duy nhất trên vũ đài cách mạng. Trái với chủ nghĩa bè phái và tính không nhất quán của Quốc dân Đảng, Đảng chúng tôi luôn gắn chặt với quần chúng và đƣa họ vào các tổ chức cách mạng, hằng ngày đƣa họ vào cuộc tranh đấu chống lại kẻ thù giai cấp của họ trên cơ sở những yêu sách bộ phận gắn chặt với những khẩu hiệu chung của cách mạng Đông Dƣơng. Những kết quả đạt đƣợc của Đảng chúng tôi trong lĩnh vực tổ chức và trong các cuộc tranh đấu cách mạng tỏ rõ sự khác biệt giữa Đảng Cộng sản Đông Dƣơng và Quốc dân Đảng về mọi phƣơng diện. Sau chỉ một năm tồn tại, Đảng Cộng sản Đông Dƣơng đã có thể tập hợp đƣợc 2.400 đảng viên vào hàng ngũ của mình, 1.500 ngƣời vào Đoàn Thanh niên Cộng sản, 6.000 ngƣời vào các công hội đỏ, 64.000 ngƣời vào các hội nông dân, v.v.. I- PHONG TRÀO BÃI CÔNG CỦA CÔNG NHÂN PHÁT TRIỂN RẤT NHANH Năm 1930, chúng tôi đã ghi nhận đƣợc 84 cuộc bãi công với hơn 27.000 ngƣời tham gia. Trong các cuộc bãi công ấy, tính chất tiến công và chính trị bao trùm. Công nhân đã tổ chức những cuộc bãi công đoàn kết anh em với nông dân nổi dậy trong nƣớc và với vô sản thế giới trong tất cả những ngày quốc tế tranh đấu cách mạng. Ví dụ, cuộc bãi công Phú Riềng đã có cả tính chất khởi nghĩa. Chúng tôi không có những số liệu đầy đủ về những cuộc bãi công năm 1931, nhƣng những cuộc tranh đấu của công nhân đã trở nên có tổ chức hơn: lần đầu tiên thấy xuất hiện những tốp kiểm tra lệnh bãi công, những uỷ ban tranh đấu và bãi công, những phân đội tự vệ, v.v.. Phong trào bãi công luôn tiếp tục. Mới gần đây (1932) các đồng chí chúng tôi đã tổ chức một cuộc bãi công tốt của công nhân in ở Sài Gòn. Những kẻ cơ hội đã tung ra luận điệu về sự chậm trễ của phong trào công nhân so với phong trào nông dân, coi nhƣ phong trào nông dân là độc lập với phong trào công nhân1 chỉ nhìn thấy mặt số lƣợng của phong trào nông dân, nhƣng không biết đến vai trò lãnh đạo của giai cấp vô sản. Các phong trào nông dân bắt đầu từ tháng 4-1930 ở Bắc Kỳ với những yêu sách kinh tế sơ đẳng. Sau đó, những cuộc biểu tình nổ ra nhiều trong các tỉnh của Nam Kỳ vào tháng 6, tháng 7, tháng 8-1930. Nông dân đòi giảm thuế má, tịch thu kho thóc, các sở hữu ruộng đất, giảm tô, tha tù chính trị, v.v.. Mặc dầu phong trào nông dân vẫn tồn tại khắp nơi trong nƣớc, nhƣng trọng tâm của nó chuyển về bắc Trung Kỳ. Ngày 9-9-1930, những cuộc biểu tình đồng loạt (nhiều cuộc có 20.000 ngƣời tham gia mỗi cuộc) nổ ra trong hầu hết các làng ở Nghệ An và Hà Tĩnh. Thời điểm cao nhất của phong trào nông dân đã kéo dài trong nhiều tháng tại hai tỉnh này là việc thành lập Xôviết thợ thuyền và dân cày trong 17 khu vực của hai huyện Thanh Chương và Nam Đàn. Quần chúng nông dân lao động của các khu vực Xôviết này, dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng, đã tịch thu ruộng đất của địa chủ và chia ruộng đất cho nhau; các toà án cách mạng lập tức đƣợc lập ra để xử bọn phản cách mạng; mọi quyền tự do chính trị của quần chúng bị bóc lột đều đƣợc thừa nhận; quyền bình đẳng nam nữ đƣợc công bố; nhiều biện pháp cách mạng khác cũng đã đƣợc thi hành. Sau những cuộc nổi dậy ở bắc Trung Kỳ, là những cuộc nổi dậy ở Quảng Ngãi, tháng 4-1931. Phong trào nông dân luôn tiếp diễn: ngày 1-5, những cuộc biểu tình rất lớn diễn ra ở bắc Trung Kỳ, nơi 175 ngƣời đã bị giết. Những cuộc biểu tình lớn còn diễn ra trong tháng 7-1931 ở Bình Định. Ngày 1-8, cũng thấy có nhiều cuộc biểu tình khác ở bắc Trung Kỳ. Năm 1930, đã ghi nhận đƣợc 280 cuộc biểu tình nông dân với 500.000 ngƣời tham dự, và trong bốn tháng đầu năm 1931, có 42 cuộc với hơn 27.000 ngƣời dự. Phong trào cách mạng đã gặp phải một sự phản động đen tối của chủ nghĩa đế quốc Pháp. Hàng chục làng đã bị máy bay ném bom và hàng ngàn ngƣời nông dân vô tội đã bị thiêu sống trong những nhà tranh tồi tàn của họ. 10.000 ngƣời cách mạng đang sống trong các nhà tù và các ngục tối. Từ ngày 1-5-1930 đến ngày 1-5-1931, 1.050 chiến sĩ công nhân và nông dân đã bị giết chết trong những cuộc chiến đấu trên đƣờng phố hoặc trong những cuộc biểu tình trên các ruộng bùn ở Đông Dƣơng. Một trăm nhà cách mạng bị đƣa lên máy chém. Trong cuộc đàn áp đẫm máu ấy chống lại phong trào cách mạng, chủ nghĩa đế quốc Pháp đã tìm đƣợc một sự ủng hộ quý báu của bọn phong kiến, địa chủ, giai cấp tƣ sản bản xứ, chủ nghĩa quốc gia cải lƣơng và chủ nghĩa đế quốc xã hội. Ngoài những tổn thất to lớn, chúng tôi lại có nhiều nhƣợc điểm và sai lầm trong hai năm tranh đấu. Chúng tôi không biết kết hợp đúng đắn hoạt động bất hợp pháp với hoạt động hợp pháp, hoạt động có hệ thống để làm sâu rộng thêm những cuộc tranh đấu của công nhân và nông dân ra toàn quốc và nâng lên trình độ cao hơn. Việc tăng cƣờng và mở rộng các tổ chức cách mạng đƣợc tổ chức ra, đã bị xem nhẹ. Chúng tôi thƣờng không biết phân tích nguyên nhân của thắng lợi và thất bại của những cuộc tranh đấu của chúng tôi để rút ra những bài học cần thiết. Những yêu sách từng phần thƣờng không gắn liền với những khẩu hiệu căn bản của cách mạng Đông Dƣơng. Cuộc tranh đấu hằng ngày chống khiêu khích bị lãng quên. Hoạt động trong quân đội hầu nhƣ không đáng kể. Cuộc tranh đấu chống chủ nghĩa quốc gia cải lƣơng và chủ nghĩa đế quốc xã hội, bị coi nhẹ. Việc bảo vệ Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xôviết và cuộc cách mạng Tàu không đƣợc phản ảnh rõ rệt trong các cuộc tranh đấu hằng ngày của quần chúng. Bên cạnh những thiếu sót, chúng tôi đã thu đƣợc những kết quả khá quan trọng. Trong nhiều tỉnh ở Nam Kỳ, thuế phụ thu đều bị bãi bỏ. Trong vài xí nghiệp, tiền lƣơng đã đƣợc tăng thêm, ngày lao động giảm. Ở bắc Trung Kỳ, trong nhiều làng, bọn địa chủ không còn dám lấy lại ruộng đất công điền công thổ mà những ngƣời nhà quê đã chiếm đƣợc trong những cuộc nổi dậy vừa qua, v.v.. Những kết quả trên đây là những kết quả trực tiếp của những cuộc tranh đấu anh dũng của quần chúng bị áp bức. Họ còn phải tranh đấu nhiều hơn nữa dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng để duy trì những thắng lợi từng phần và tiến tới thắng lợi cuối cùng. Đó chính là hƣớng mà những ngƣời cộng sản cần giáo dục và huy động quần chúng. II- SỰ SUY TÀN CỦA CÁCH MẠNG HOẶC CHỦ NGHĨA THỦ TIÊU Chủ nghĩa cơ hội nổi lên trong hàng ngũ cộng sản của chúng tôi khi cuộc tranh đấu giai cấp ngày càng tự rèn. Trƣớc cuộc khủng bố trắng, những phần tử tiểu tƣ sản đã len lỏi đƣợc vào trong Đảng trong những thời kỳ "hoà bình", bấy giờ tỏ ra do dự và bảo vệ những luận thuyết chống chủ nghĩa Lênin. Họ nhìn tất cả là đen tối và không có khả năng đánh giá giai đoạn hiện tại của phong trào cách mạng và xác định những nhiệm vụ chính trị đúng đắn tƣơng ứng. Tất nhiên, chúng tôi không quy cho Đảng chúng tôi những xu hƣớng cơ hội chủ nghĩa, mà ở đây chúng tôi chỉ lên án chủ nghĩa thủ tiêu của vài nhóm nhỏ hoặc một vài đồng chí riêng biệt. Những ngƣời thủ tiêu chủ nghĩa luôn tƣởng rằng phong trào cách mạng cần phát triển theo đƣờng thẳng chứ không theo con đƣờng ngoắt ngoéo mà phép biện chứng duy vật giải thích, vì thế khi nhìn thấy những thất bại, họ không ngớt kêu lên sự suy tàn của phong trào cách mạng, những thảm hoạ thật sự mà những nỗ lực của chúng tôi đã vấp phải, sự rạn nứt sâu sắc xảy ra trong lòng giai cấp công nhân, nguy cơ về sự biến mất hoàn toàn của Đảng trong một giai đoạn lịch sử nào đó, sự khủng hoảng nội bộ Đảng, sự khủng hoảng đƣợc thể hiện trong những thất bại rải rác của nông dân!!! Tất cả những quan niệm thủ tiêu chủ nghĩa ấy đều sai và nguy hiểm, không có tác dụng cổ vũ quần chúng mà làm nản lòng họ trong tranh đấu cách mạng. Những ngƣời thủ tiêu chủ nghĩa kêu lên rằng, những cuộc biểu tình quy thuận của nông dân Cao Lãnh, Nghệ An và Hà Tĩnh mà ngƣời ta ngờ rằng đó là trò giả mạo của đế quốc Pháp, không phải gì khác mà là một dấu hiệu suy tàn của cuộc tranh đấu của quần chúng. Lập luận nhƣ thế là đồng tình với chính sách đế quốc, khẳng định dối trá rằng quần chúng đã tẩy chay những ngƣời cộng sản để tự nguyện quy hàng nhà cầm quyền Pháp. Hơn nữa, các sự kiện đều không đúng: a) những cuộc biểu tình quy thuận đều do bọn hƣơng lý tổ chức theo lệnh chính phủ đế quốc, quần chúng bị buộc phái đi nhận những thẻ quy thuận, nếu không sẽ bị bỏ tù; nhƣ vậy, những cuộc biểu tình quy thuận đều là sản phẩm thực tế của đế quốc; b) những đợt vận động quy thuận đều tiến hành vào tháng 12-1930 và tháng 1-1931, tức là rất lâu trƣớc khi có những cuộc tổng bãi công ở Cẩm Phả, ở các công ty dầu hoả tại Nam Kỳ, các cuộc nổi dậy ở Quảng Ngãi, những cuộc biểu tình hồi tháng 5, tháng 7, tháng 8-1931, v.v.. Vì thế, thật là một sự vu khống cho Đảng Cộng sản và một sự đánh giá thấp tinh thần chiến đấu của quần chúng khi nêu ra những dấu hiệu suy tàn trong những thời điểm vƣơn lên thực sự của cách mạng. Những ngƣời thủ tiêu chủ nghĩa còn cho rằng những cuộc biểu tình bạo lực của Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Ngãi và các cuộc biểu dƣơng ngày 1-5-1931, là những ý đồ tuyệt vọng để hồi phục phong trào, hoặc là một bằng chứng về sự hấp hối của Đảng, trong lúc chúng tôi, những ngƣời cộng sản chân thực, chúng tôi cho rằng những cuộc nổi dậy và biểu dƣơng ấy lại là những đỉnh cao nhất của phong trào cách mạng do Đảng Cộng sản Đông Dƣơng lãnh đạo. Đây là một sự buộc tội nặng nề đối với Đảng chúng tôi, vì làm sao mà trong những phong trào kia lại có thể tìm ra một bằng chứng của sự hấp hối của Đảng, khi Đảng đã có thể huy động hàng chục ngàn công nhân và nông dân tranh đấu dũng cảm dƣới cờ Đảng. Ngay một ngƣời công nhân dốt nát nhất hoặc một ngƣời nông dân khờ khạo nhất cũng có thể rất dễ dàng bẻ lại những lý lẽ cơ hội chủ nghĩa trẻ con và sai lầm, nhằm bôi nhọ Đảng Cộng sản Đông Dƣơng nhƣ vậy. Tại Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xôviết, chủ nghĩa xã hội đƣợc xây dựng có kết quả; trong các nƣớc tƣ bản và thuộc địa, khủng hoảng kinh tế và ruộng đất lan rộng và sâu sắc thêm. Những mâu thuẫn giữa hai hệ thống tƣ bản chủ nghĩa và Xôviết càng ngày càng làm cho sự can thiệp quân sự đế quốc chủ nghĩa chống lại xứ sở của chuyên chính vô sản thêm đến gần. Những cuộc chiến đấu giữa tƣ bản và lao động mang tính chất gay gắt hơn, cuộc tranh đấu để giải phóng dân tộc của nhân dân các nƣớc thuộc địa và nửa thuộc địa (và trƣớc hết là phong trào Xôviết ở Tàu) ngày càng mở rộng; chiến tranh đế quốc chủ nghĩa đã bắt đầu ở Tàu. Ở Đông Dƣơng, khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng về ruộng đất cũng ngày càng phát triển và thêm sâu sắc. Cuộc tiến công toàn diện của tƣ bản đối với lao động làm cho đời sống vật chất của giai cấp công nhân thêm nghèo khổ; các tầng lớp nông dân lao động và giai cấp tiểu tƣ sản thành thị bần cùng hoá rất nhanh; tình cảnh vật chất của tất cả mọi giai cấp bị áp bức và bóc lột ngày càng tồi tệ, vì thế chúng tôi có những điều kiện khách quan rất thuận lợi để nhanh chóng cấp tiến hoá quần chúng và tạo một đà phát triển mới của cách mạng ở Đông Dƣơng. Hiện nay, chúng tôi đang gặp một sự cách biệt giữa những điều kiện khách quan và những yếu tố chủ quan, nhƣng thật là sai lầm nếu than vãn về sự "suy tàn" của cách mạng nhƣ những kẻ thủ tiêu chủ nghĩa đang làm, trong thời kỳ đầy khủng hoảng kinh tế kéo dài và hoạt động tranh đấu giai cấp gay gắt hiện nay ở Đông Dƣơng cũng nhƣ trên toàn thế giới. Nói đúng hơn là hiện nay chúng tôi đang ở vào đêm trƣớc của một làn sóng cách mạng mới. Tất nhiên, không nên quá lạc quan để dự kiến rằng phong trào cách mạng Đông Dƣơng sẽ dâng cao rất nhanh chóng một cách tự phát và không cần có những nhân tố chủ quan, nhƣng cũng rất nguy hiểm và trái với sự thật nếu khẳng định nhƣ những kẻ thủ tiêu chủ nghĩa rằng phong trào cách mạng đã hoàn toàn bị tiêu diệt ở Đông Dƣơng. Nhƣ đã nói rõ ở trên, Đảng chúng tôi đã chịu những tổn thất nghiêm trọng do những chiến sĩ ƣu tú nhất đã bị bắt và nhiều cơ quan bất hợp pháp bị cảnh sát phát hiện, song thật là sai lầm để từ đó mà suy luận rằng Đảng chúng tôi đã bị diệt. Phong trào cách mạng cũng còn rất xa mới bị dập tắt, nhƣ bọn thủ tiêu chủ nghĩa bi quan đã tƣởng. Tất nhiên, trong thời gian gần đây không có những phong trào quần chúng lớn (biểu tình, biểu dƣơng, v.v.) song những ngƣời lao động bị bóc lột luôn biểu thị một tính tích cực cách mạng lớn. Không có ngày quốc tế tranh đấu cách mạng nào lại không có truyền đơn và tuyên cáo cộng sản đƣợc rải khắp nơi. Cuộc bãi công mới đây của công nhân in ở Sài Gòn, những cuộc mít tinh của nông dân ở Hà Tĩnh (tháng 2-1932), việc chuẩn bị chu đáo để làm lễ kỷ niệm ngày Quốc tế phụ nữ ở Cao Miên, việc bắt bớ rất thƣờng xuyên những ngƣời cách mạng và sự phát hiện những chi bộ cộng sản, v.v. cũng đều là những bằng chứng đầy sức thuyết phục nói rõ phong trào cách mạng vẫn tồn tại và sẽ có thể phát triển rất nhanh, với điều kiện là những ngƣời cộng sản hồi phục lại đƣợc những lực lƣợng tạm thời bị sự đàn áp của đế quốc làm cho tê liệt, xây dựng và củng cố các tổ chức cách mạng của mình, chỉnh đốn và xiết chặt đội ngũ chiến đấu của mình. III- SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CHỦ NGHĨA CƠ HỘI VÀ CHỦ NGHĨA LÊNIN Sau đây là những khuynh hƣớng cơ hội chủ nghĩa mà Đảng chúng tôi tranh đấu quyết liệt để chống lại: 1. Tính chất của nền kinh tế Đông Dƣơng Thật buồn cƣời khi thấy bọn thủ tiêu chủ nghĩa coi Đông Dƣơng là một xứ mới, một từ không phải của những ngƣời cộng sản dùng, mà của bọn đế quốc Pháp là những kẻ nhìn nhận "nƣớc Pháp đẹp đẽ" của chúng ở Viễn Đông là một xứ mới để khai thác thuộc địa, một "khúc ruột thừa kinh tế" (về nông nghiệp và nguyên liệu) của chủ nghĩa tƣ bản ngoại quốc, nhằm mục đích tăng cƣờng quyền lực kinh tế và chính trị của giai cấp tƣ sản của nƣớc tƣ bản, trên mồ hôi công sức của các giai cấp cần lao xứ thuộc địa; để duy trì vĩnh viễn độc quyền thực dân và tăng cƣờng sự bành trƣớng của nó trong phần còn lại của thế giới (Luận cương của Quốc tế Cộng sản về phong trào cách mạng tại các thuộc địa và nửa thuộc địa). Đây là một sự lẫn lộn về từ ngữ hay là một ý định thật sự ca ngợi chế độ khai thức thuộc địa? Bản thân chúng tôi nghiêng nhiều về giả thiết thứ hai hơn là giả thiết thứ nhất. Những ngƣời cơ hội chủ nghĩa không nhận thấy sự bóc lột phong kiến tại nông thôn Đông Dƣơng. Họ kém hiểu biết về lý luận và thực tiễn đến mức khẳng định rằng nguyên nhân chủ yếu của sự nghèo khổ của dân cày là sự bóc lột của giai cấp tƣ sản bản xứ ! Vậy thì bọn phong kiến và địa chủ ở đâu? Đảng Cộng sản Đông Dƣơng dẫn dắt quần chúng nông dân làm cách mạng ruộng đất chống lại ai? Thực sự, những ngƣời cơ hội chủ nghĩa đều phạm phải sai lầm nhƣ những ngƣời lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng cũ năm 1929 (nhóm chƣa hợp nhất), là những ngƣời đã khẳng định rằng chỉ còn rất ít tàn tích phong kiến ở Cao Miên, trong khi trên thực tế là ở đây bên cạnh nền kinh tế phong kiến nổi trội, có những tàn tích gia trƣởng. Nếu không thấy những tàn dƣ phong kiến ở nông thôn, thì sẽ biến Đông Dƣơng thành một nƣớc tƣ bản (công nghiệp), điều này sẽ tất nhiên dẫn đến lý thuyết về sự phi thực dân hoá của Quốc tế II. Phân tích nền kinh tế ruộng đất ở Đông Dƣơng nhƣ một nền kinh tế tƣ bản là không phù hợp với thực tế. Thật vậy, làm sao có thể bỏ qua những tàn dƣ phong kiến ở Đông Dƣơng, khi 23% đất ruộng thuộc về bọn thực dân Pháp (trong các doanh nghiệp của bọn thực dân Pháp, ngƣời ta duy trì phần lớn những hình thức bóc lột tiền tƣ bản, do giá nhân công bản xứ rẻ) và hơn 50% ruộng đất ở trong tay bọn địa chủ bản xứ. Ngoài điều đó ra, những ngƣời cơ hội chủ nghĩa cũng đã xa rời đƣờng lối của Quốc tế Cộng sản là đƣờng lối nói về tính chất của các thuộc địa nhƣ sau: "Ở mọi nơi, chủ nghĩa đế quốc ra sức giữ lại và duy trì mãi mãi mọi hình thức bóc lột tiền tƣ bản (nhất là ở nông thôn) là cơ sở tồn tại của những đồng minh phản động của chúng" (Luận cương về phong trào cách mạng ở các thuộc địa và nửa thuộc địa). 2. Tính chất của cách mạng Đông Dƣơng Tất nhiên, tính chất của cuộc cách mạng mỗi nƣớc cần đƣợc xác định không phải một cách trừu tƣợng nhƣ bọn tờrốtxkít, mà căn cứ vào cơ cấu kinh tế và chính trị của nƣớc ấy. Những kẻ cơ hội chủ nghĩa đã phân tích sai nền kinh tế Đông Dƣơng, vì thế chúng đã trƣợt một cách tất yếu vào chủ nghĩa Tờrốtxky khi đề ra nhiệm vụ của chuyên chính vô sản cho giai đoạn này của cách mạng tƣ sản dân chủ ở Đông Dƣơng. Cách mạng Đông Dƣơng, vì những điều kiện đặc thù của xứ thuộc địa, phải là một cuộc cách mạng tƣ sản dân chủ, gắn chặt cuộc tranh đấu chống đế quốc (lật đổ Chính phủ Pháp) với cuộc cách mạng ruộng đất (lật đổ bọn phong kiến và địa chủ). Và nếu cuộc cách mạng này thắng lợi, sẽ thiết lập nên nền chuyên chính dân chủ cách mạng của giai cấp vô sản và của nông dân, dƣới hình thức những Xôviết của đại biểu công nhân và nông dân. Những kẻ cơ hội chủ nghĩa phủ nhận và không hiểu những nhiệm vụ căn bản của cuộc cách mạng của chúng tôi trong giai đoạn đầu, khi khẳng định rằng giai cấp vô sản phải dẫn dắt quần chúng bị áp bức qua các cuộc tranh đấu, không thoả hiệp với một giai đoạn nào, cho đến chỗ thiết lập nền chuyên chính vô sản. Họ cũng đã phủ nhận những luận điểm lêninnít về sự phát triển không đồng đều của chủ nghĩa tƣ bản và về sự biến đổi cuộc cách mạng tƣ sản dân chủ thành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Họ đã cùng mắc phải những sai lầm mà tên phản bội Tờrốtxky2 đã mắc phải, khi hắn tung ra năm 1905 khẩu hiệu: "Đả đảo Nga hoàng, nhà nƣớc công nhân muôn năm!", hoặc khi hắn đề nghị với Quốc tế Cộng sản, vài năm trƣớc đây, tiến hành ngay lập tức cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Tàu, bỏ qua cuộc cách mạng tƣ sản dân chủ. Những kẻ cơ hội chủ nghĩa nên hiểu rằng nền chuyên chính của vô sản và dân cày ở Đông Dƣơng sẽ không phải là mục đích cuối cùng của chúng tôi, mà là một giai đoạn của cuộc tranh đấu cách mạng. Chúng tôi cũng sẽ tiến tới nền chuyên chính vô sản ở Đông Dƣơng, nhƣng chỉ là bằng con đƣờng biến đổi theo nhƣ Lênin đã dạy năm 1905, chứ không phải bằng cách đốt cháy các giai đoạn: "Theo khả năng lực lƣợng của ta, tức là lực lƣợng của giai cấp vô sản đƣợc giác ngộ và có tổ chức, chúng ta sẽ bắt đầu đi từ cuộc cách mạng dân chủ sang cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta ủng hộ cuộc cách mạng không ngừng. Chúng ta không dừng lại nửa đƣờng... không rơi vào đầu óc phiêu lƣu, không phản bội lƣơng tâm khoa học của mình, không đuổi theo hƣ vinh, chúng ta có thể nói và chỉ nói một điều thôi: bằng tất cả lực lƣợng của chúng ta, chúng ta sẽ giúp đỡ tất cả dân cày làm cuộc cách mạng dân chủ, để có thể dễ dàng hơn cho chúng ta, đảng của giai cấp vô sản, tiến càng nhanh càng tốt sang một nhiệm vụ mới cao hơn, nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa". (Lênin) Sự ba hoa về nền chuyên chính vô sản ở Đông Dƣơng ở giai đoạn đầu của cách mạng còn là một điều nguy hiểm ở chỗ đánh giá thấp, thậm chí phủ nhận vai trò của nông dân với tƣ cách là đồng minh của giai cấp vô sản và một trong những động lực của cách mạng tƣ sản dân chủ. Sự đánh giá thấp hoặc không biết đến vai trò của nông dân sẽ không tránh khỏi dẫn tới chỗ không biết đến tầm quan trọng và sự cần thiết của khối liên minh cách mạng công nhân và nông dân một bên và của mặt trận chống đế quốc với những đảng cách mạng tiểu tƣ sản một bên (ở đây, Đảng Cộng sản cần giữ vững tính độc lập hoàn toàn và quyền hoàn toàn tự do hành động của mình). Và không hiểu biết nhƣ vậy về hai lực lƣợng đặc thù ấy của mặt trận duy nhất cách mạng lại sẽ góp phần làm suy yếu lực lƣợng chúng ta và làm lợi cho các giai cấp của bọn phản động. Thợ thuyền đang mỏi mắt trông chờ ngày làm tám giờ và một sự cải thiện triệt để những điều kiện sinh hoạt vật chất và xã hội; dân cày đòi có ruộng đất (bằng cách mạng ruộng đất); những kẻ cơ hội chủ nghĩa sẽ cần phải xa rời - trong giai đoạn đầu của cuộc cách mạng của chúng ta, khẩu hiệu chuyên chính vô sản và hoạt động thành thực tay trong tay với Đảng Cộng sản Đông Dƣơng và dƣới sự lãnh đạo của Quốc tế Cộng sản, để dẫn dắt cuộc tranh đấu của quần chúng lao động Đông Dƣơng nhằm thực hiện những nhiệm vụ chính trị và thực tiễn của cuộc cách mạng tƣ sản dân chủ, mà thắng lợi và sự phát triển của cuộc cách mạng này sẽ tạo ra cho Đảng Cộng sản những cơ sở, những tiền đề và những khả năng khách quan để tiến tới nền chuyên chính vô sản và chủ nghĩa xã hội. Sau cùng, đoạn sau đây của chƣơng trình Quốc tế Cộng sản, đề ra tính chất và các nhiệm vụ của cách mạng ở các thuộc địa, ắt phải đập tan những quan niệm chống lêninnít của những kẻ cơ hội chủ nghĩa trong Đảng Cộng sản Đông Dƣơng: "... Các thuộc địa và nửa thuộc địa (Tàu, Ấn Độ, v.v. và các nƣớc phụ thuộc (Áchentina, Bradin và những nƣớc khác) có một mầm mống công nghiệp, đôi khi có cả một nền công nghiệp phát triển, nhƣng trong nhiều trƣờng hợp không đủ cho sự xây dựng chủ nghĩa xã hội một cách độc lập; các nƣớc mà ở đó chiếm ƣu thế là những quan hệ xã hội thời trung cổ phong kiến, ở đó còn tồn tại "kiểu sản xuất châu Á" cả trong đời sống kinh tế cả trong thƣợng tầng kiến trúc chính trị; cuối cùng các nƣớc ở đó những doanh nghiệp chính về công nghiệp, thƣơng mại, ngân hàng, những phƣơng tiện vận tải chính, những địa sản lớn nhất, những đồn điền lớn nhất, v.v. đều ở trong tay những nhóm ngƣời đế quốc nƣớc ngoài. Một mặt là tranh đấu chống chế độ phong kiến và các hình thức bóc lột tiền tƣ bản chủ nghĩa và tiến hành cách mạng ruộng đất một cách nhất quán, một mặt là tranh đấu chống chủ nghĩa đế quốc nƣớc ngoài để giành độc lập dân tộc, các cuộc tranh đấu ấy có tầm quan trọng hàng đầu. Việc chuyển sang chuyên chính vô sản tại các nƣớc này, nói chung, chỉ có thể thực hiện thông qua một loạt giai đoạn chuẩn bị, thông qua cả một thời kỳ phát triển của cách mạng tƣ sản dân chủ thành cách mạng xã hội chủ nghĩa; kết quả của công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở đây, trong phần lớn trƣờng hợp, lấy sự ủng hộ trực tiếp của những nƣớc chuyên chính vô sản làm điều kiện". 3. Các động lực Những kẻ cơ hội chủ nghĩa có một sự nhầm lẫn trong việc xác định những động lực của cách mạng Đông Dƣơng. Họ nói: 1) Ngay tính chất sự bóc lột của giai cấp tƣ sản bản xứ đối với nông dân, những sự dao động và thiếu vững vàng của giai cấp tiểu tƣ sản không bị phân hoá (?) tỏ rõ rằng các động lực của cách mạng nằm trong quần chúng bị bóc lột. 2) Cách mạng chỉ đi tới việc giải quyết toàn bộ các nhiệm vụ dân chủ bằng thắng lợi của công nhân, nền chuyên chính vô sản, dựa trên liên minh với .....3. "Giai cấp vô sản phải hoàn thành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa bằng cách kéo theo mình khối những ngƣời bán vô sản ở nông thôn, để đập tan bằng bạo lực sự kháng cự của giai cấp tƣ sản và làm tê liệt giai cấp nông dân và giai cấp tiểu tƣ sản thiếu vững vàng". (Lênin: Hai sách lược) Đồng chí Xtalin4 nói: "Khẩu hiệu ấy là cần thiết đối với các Đảng Cộng sản ngay trƣớc khi giành chính quyền. Nhƣng khi họ đã giành đƣợc chính quyền, mà chƣa củng cố đƣợc chính quyền, thì họ không còn có thể trông cậy vào sự liên minh với trung nông nữa. Trung nông là con ngƣời hay tính toán, trƣớc hết họ nhìn xem ai sẽ chiến thắng, họ chờ xem và chỉ liên minh với chúng ta khi nào chúng ta dứt khoát làm chủ tình thế và chúng ta đã tống cổ đƣợc bọn địa chủ và bọn tƣ sản". Nhƣng khi chính quyền vô sản đã khá vững chắc, khi những cuộc tiến công của tƣ bản bị đẩy lùi, "giai cấp vô sản phải căn cứ theo mức độ mình đã củng cố đƣợc nền chuyên chính của mình và phát triển công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, mà chuyển từ chính sách trung lập hoá khối trung nông, sang chính sách liên minh lâu dài với trung nông, mà tất nhiên là không chấp nhận một sự chia sẻ quyền lực nào hết" (Luận cương về phong trào cách mạng ở các thuộc địa và nửa thuộc địa của Quốc tế Cộng sản). Vậy chúng ta thấy rõ là những kẻ cơ hội chủ nghĩa ở Đông Dƣơng đã nhầm hoàn toàn trong việc xác định các động lực của cách mạng tƣ sản dân chủ và của cách mạng xã hội chủ nghĩa. 4. Đảng Những kẻ cơ hội chủ nghĩa một mặt thì than thở rằng Đảng Cộng sản Đông Dƣơng còn chƣa bảo đảm bá quyền của giai cấp vô sản trong đội ngũ của mình, rằng sự phục hƣng của Đảng cần và chỉ có thể do hạt nhân vô sản tiến hành, nhƣng một mặt họ lại viết rằng Đảng Cộng sản là đảng của công nhân và nông dân, tức không phải đảng chính trị của một giai cấp duy nhất (giai cấp vô sản) mà là của hai giai cấp! Đó là một điều mâu thuẫn với chính bản thân họ, một sự không hiểu biết về vai trò lãnh đạo thật sự của giai cấp vô sản trong phong trào cách mạng. Giai cấp vô sản là một giai cấp không có tƣ liệu sản xuất, tức không có tƣ hữu, vì thế, nó là giai cấp xã hội duy nhất triệt để cách mạng và bắt buộc phải giữ vai trò lãnh đạo trong phong trào cách mạng. Đảng Cộng sản, với tính cách là đội tiền phong của giai cấp vô sản, cần có một hệ tƣ tƣởng vững chắc, một đƣờng lối chính trị không lay chuyển và một kỷ luật sắt. Sự thống nhất ấy về nguyên tắc, về ý chí và về hoạt động cách mạng chỉ có thể có đƣợc nếu Đảng gồm những phần tử thuần nhất, có quyết tâm lãnh đạo cuộc tranh đấu cách mạng cho đến lúc xoá bỏ hoàn toàn tƣ hữu đã sinh ra các giai cấp và tình trạng ngƣời bóc lột ngƣời và cho đến khi thiết lập chủ nghĩa cộng sản hoàn toàn. Làm sao những kẻ cơ hội chủ nghĩa có thể hoà hợp những lời ba hoa về sự thuần nhất của vô sản và về sự cần thiết phải có đa số phần tử công nhân trong Đảng Cộng sản, với nguyên lý sai lầm của họ về tổ chức một đảng của hai giai cấp? Phải chăng, đây là một sự nhầm lẫn về lý luận, chỉ làm xấu hổ cho những kẻ cơ hội chủ nghĩa? Họ cần hiểu rằng, nếu Đảng Cộng sản lại gồm những phần tử không thuần nhất của hai giai cấp khác nhau về hệ tƣ tƣởng, thì không những chúng ta sẽ không bao giờ có thể bảo đảm sự thống nhất chặt chẽ của nó trong lý luận cũng nhƣ trong thực tiễn, mà chúng ta còn biến Đảng thành một tổ chức tranh đấu bè phái thƣờng xuyên. Vì vậy, chúng ta không bao giờ có thể đồng ý với những kẻ cơ hội chủ nghĩa để biến Đảng Cộng sản thành một đảng của hai giai cấp (của công nhân và nông dân). Đƣơng nhiên, chúng ta không đóng chặt cửa đối với những phần tử ƣu tú cách mạng từ một giai cấp xã hội khác tới, song những phần tử ấy, khi gia nhập hàng ngũ chúng ta, trƣớc hết cần từ bỏ hoàn toàn những lợi ích và hệ tƣ tƣởng của giai cấp, để hiến dâng cả cơ thể và tâm hồn mình cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản. Dù sao, việc kết nạp những ngƣời không vô sản không đƣợc làm hại cho cấu tạo xã hội vô sản của Đảng Cộng sản chúng ta, một cấu tạo đòi hỏi phải có và sẽ phải có đại bộ phận là những phần tử công nhân, để bảo đảm bá quyền lãnh đạo hiển nhiên của giai cấp vô sản. 5. Ý nghĩa của tranh đấu giai cấp Những kẻ cơ hội chủ nghĩa không hiểu ý nghĩa của tranh đấu giai cấp, hoặc họ chỉ hoàn toàn giới hạn cuộc tranh đấu này trong cuộc tranh đấu mà vô sản tiến hành. Họ quên câu nói nổi tiếng của Mác, rằng lịch sử nhân loại cho tới ngày nay chỉ là một loạt cuộc tranh đấu giai cấp không ngừng. Sự nhầm lẫn về ý nghĩa của tranh đấu giai cấp khiến chúng tôi nhớ lại sai lầm của Hội Thanh niên Cách mạng An Nam, năm 1929 đã khẳng định rằng cuộc tranh đấu giai cấp đã thâm nhập vào Đông Dƣơng chỉ từ sau khi cuộc chiến tranh đế quốc chấm dứt! Những kẻ cơ hội chủ nghĩa ngày nay thực sự đã rơi vào con đƣờng sai lầm của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Hội. Họ đã sai lầm khi khẳng định rằng những phƣơng pháp tranh đấu ở Đông Dƣơng tiếp tục duy trì tính chất vô chính phủ của các cuộc chiến tranh nông dân, chứ không bắt nguồn từ một sự không khoan nhƣợng về giai cấp. Những lý lẽ nhƣ thế đều hoàn toàn sai: a) Những cuộc chiến tranh nông dân không cần phải có tính chất vô chính phủ nhƣ những kẻ cơ hội chủ nghĩa mong muốn. Tất nhiên, có những cuộc chiến tranh nông dân tự phát, "vô chính phủ", song có những cuộc khác đƣợc những ngƣời cách mạng tổ chức và lãnh đạo. Ví nhƣ, phải chăng có thể nói rằng những cuộc chiến tranh nông dân do những ngƣời bônsơvích ở Nga lãnh đạo trƣớc đây và do những ngƣời cộng sản ở Tàu lãnh đạo hiện nay đều có tính chất vô chính phủ? b) Đảng Cộng sản Đông Dƣơng còn trẻ, do thiếu những lực lƣợng cần thiết, đã không thể tổ chức và lãnh đạo tất cả những cuộc tranh đấu đã nổ ra trong những năm vừa qua, nhƣng từ đó mà suy luận rằng tất cả những cuộc tranh đấu ấy đều có tính chất vô chính phủ và có tính chất sơ khai hoặc không bắt nguồn từ một sự không khoan nhƣợng về giai cấp, là phủ nhận hoàn toàn vai trò to lớn về lãnh đạo tƣ tƣởng và tổ chức thực tiễn của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng. c) Những cuộc chiến tranh nông dân đã nổ ra tới nay đều là những cuộc tranh đấu của những dân quê bị bóc lột chống lại những giai cấp thống trị (đế quốc Pháp, phong kiến và địa chủ bản xứ), vì thế, sẽ là sai lầm nếu không thấy tính chất tranh đấu giai cấp trong những cuộc chiến tranh nông dân ấy. IV- NHỮNG NHIỆM VỤ TRƢỚC MẮT CỦA CHÚNG TÔI Những ngƣời cộng sản Đông Dƣơng không than vãn bi quan về những thất bại đã qua, mà rút ra từ đấy những kinh nghiệm hay cho những cuộc tranh đấu sắp tới. Chúng tôi không bao giờ để cho những thất bại đánh gục, trái lại chúng tôi tự chuẩn bị nghiêm chỉnh hơn, ngay từ bây giờ, cho những cuộc chiến đấu quyết định hơn. Nhiệm vụ trung tâm của chúng tôi hiện nay là tổ chức lại và tăng cƣờng các tổ chức đảng để thích ứng với những điều kiện hoạt động mới giữa lúc có khủng bố trắng và tranh đấu giai cấp quyết liệt. Song song với việc tổ chức lại trong nội bộ, chúng tôi phải mở rộng và tăng cƣờng một cách có hệ thống các tổ chức quần chúng của chúng tôi (các công đoàn, các hội nông dân, liên đoàn chống đế quốc, v.v.). Chỉ có thực hiện đƣợc nhiệm vụ tổ chức của chúng tôi, chúng tôi mới có thể hồi phục lại đƣợc những lực lƣợng của mình nhất thời bị phân tán hoặc cô lập do khủng bố của đế quốc. Tuy nhiên, công tác tổ chức này không thể tiến hành máy móc, độc lập, mà phải gắn chặt với những cuộc tranh đấu hằng ngày của đông đảo quần chúng lao động và chúng tôi cần giành đƣợc đa số, trên cơ sở bảo vệ những yêu sách từng phần hằng ngày của họ. Nhiệm vụ trƣớc mắt thứ hai của chúng tôi là tăng cƣờng công tác của chúng tôi nhằm làm phân hoá trong quân đội đế quốc, huy động hằng ngày quần chúng lao động tranh đấu chống chiến tranh đế quốc đã bắt đầu ở Tàu và bảo vệ Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xôviết cùng cuộc cách mạng Tàu. Việc thực hiện những nhiệm vụ trƣớc mắt quan trọng của chúng tôi gắn chặt với cuộc tranh đấu chống mọi khuynh hƣớng của chủ nghĩa cơ hội, để bảo vệ đƣờng lối chung lêninnít của Quốc tế Cộng sản, với sự tăng cƣờng tự phê bình bônsơvích trong hàng ngũ chúng tôi, với việc mở rộng giáo dục chính trị cho đảng viên và ngƣời không Đảng, với cuộc tranh đấu không ngừng chống khiêu khích, chống khủng bố trắng, sự phản bội của chủ nghĩa quốc gia cải lƣơng và của chủ nghĩa xã hội đế quốc. Tất cả các khẩu hiệu tranh đấu hằng ngày của chúng tôi (yêu sách từng phần) phải gắn chặt với những khẩu hiệu chung của cách mạng Đông Dƣơng (tranh đấu chống đế quốc và cách mạng ruộng đất). Nhiệm vụ của chúng tôi nặng nề và khó khăn nhƣng chúng tôi sẽ biết cách vƣợt qua tất cả những trở ngại và những khó khăn sẽ xuất hiện trƣớc mắt chúng tôi. Chúng tôi sẽ luôn luôn tiến bƣớc với niềm phấn khởi và nghị lực nhiều hơn nữa. Thắng lợi của cách mạng Đông Dƣơng sẽ ở trong tay chúng tôi: chúng tôi chỉ việc tiến tới đó bằng tranh đấu. Chào cộng sản Sài Gòn, tháng 2 năm 1932 HỒNG THẾ CÔNG - Tài liệu tiếng Pháp, lƣu tại Kho Lƣu trữ Trung ƣơng Đảng. - Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t.4, tr.254-275. ____________ 1. Nhƣng là sai lầm khi căn cứ vào sự khác nhau giữa số các cuộc biểu tình của nông dân và số công nhân bãi công, để nêu ra luận điệu sai lầm về sự chậm trễ, vì Đông Dƣơng là một xứ mà 90% dân chúng là nông dân, phong trào công nhân rất khó đạt đƣợc số lƣợng của phong trào nông dân. Thực tế, những kẻ cơ hội... (H.T.C). 2. Tờrốtxky: Xem bản chỉ dẫn tên ngƣời vần T (B.T). 3. Trong tài liệu mất một số từ (B.T). 4. Xtalin: Xem bản chỉ dẫn tên ngƣời vần X (B.T)